Yếu tố biểu diễn Nō

Biểu diễn Nō bao gồm rất nhiều các yếu tố hợp thành phong cách chung, với mỗi yếu tố bắt nguồn từ văn hóa Phật giáo, Shintō, và các khía cạnh nhỏ nữa trong các quan điểm mỹ học của kịch Nō.

Sân khấu

Sân khấu kịch Nō trước buổi diễn1:hashigakari. 2:vị trí kyogen. 3:chỗ ngồi khán giả. 4:trống. 5:trống hông. 6:trống vai. 7:sáo. 8:dàn hợp xướng. 9:chỗ ngồi của waki. 10:vị trí waki. 11:vị trí shite. 12:shite-bashira. 13:metsuke-bashira. 14:waki-bashira. 15:fue-bashira.

Sân khấu kịch Nō truyền thống bao gồm một sảnh theo lối kiến trúc sân khấu kagura truyền thống của những ngôi đền Shintō, và thường được làm từ gỗ hinoki (cây bách Nhật Bản). Bốn cột được đặt tên theo hướng của nó trong vở diễn: waki-bashira ở trước, góc phải gần vị trí đứng và ngồi của waki; cột shite-bashira ở rìa, góc trái, ở gần vị trị ‘'shite thường biểu diễn; cột fue-bashira ở rìa góc phải, gần người thổi sáo; và cột metsuke-bashira, hay "cột nhìn", gọi vậy là vì "shite" thường đối mặt và ở gần cột này.

Sàn được đánh bóng để diễn viên có thể diễn cá pha trượt, và dưới sàn được chôn các bình lớn bằng hay các kết cấu rỗng nhưng chắc chắn để tăng độ vang của sàn gỗ khi diễn viên dậm mạnh lên sàn. Và để làm điều đó, sàn được nâng lên khoảng ba foot so với khán giả.

Sự trang trí duy nhất trên sân khấu là kagami-ita, bức tranh cây thông ở phía cuối sân khấu. Người ta tin rằng nó đại diện cho cây thông nổi tiếng ở đền KasugaNara, hoặc là biểu hiện của cho các bậc tiền bối đã đặt nền móng cho nghệ thuật Nō.

Một đặc điểm độc đáo khác của sân khấu là hashigakari, một cây cầu hẹp ở bên phải (từ phía khán đài nhìn tới là bên trái) mà diễn viên chính thường dùng để đi lên sân khấu. Đường này sau được phát triển thành hanamichikabuki.

Tất cả các sàn diễn đều dành cho kịch Nō một cái móc hay cái thòng lọng ở trên trần để treo và đánh chuông cho vở kịch Dōjōji. Khi vở kịch đó được biểu diễn ở nơi khác, cái móc này sẽ được lắp thêm vào tạm thời.

Phục trang

Quần áo của diễn viên được trang trí bằng nhiều nhiều loại biểu tượng cho loại diễn viên. Ví dụ thần sấm sét sẽ có hình lục giác trên áo, trong khi rắn sẽ có hình tam giác tượng trưng cho vảy. Phục trang cho "shite" được đặc biệt cường điệu hóa, với kim tuyến lấp lánh, nhưng còn ít lộng lẫy hơn so với tsure, wakizure, và aikyōgen.

Nhạc công và hát bè thường mặc montsuki kimono (đen và được trang trí bằng gia huy của năm gia đình) cùng với hakama (một loại áo vải) hay kami-shimo, hòa trộn giữa hakama và áo thắt eo với vai phồng. Cuối cùng, những người phục vụ sân khấu mặc vải đen không được trang trí, giống như cách họ mặc ở các sân khấu phương Tây hiện nay.

Mặt nạ

Mặt nạ trong kịch Nō (能面 nō-men (năng diện) hay 面 omote (diện)) đều có tên riêng.

Thường chỉ có shite, diễn viên chính, mới đeo mặt nạ. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, tsure cũng có thể đeo mặt nạ, đặc biệt là với vai nữ. Mặt nạ kịch Nō vẽ chân dung của phụ nữ hay những nhân vật không phải người (thần thánh, quỷ, hay động vật). Cũng có vài mặt nạ kịch Nō để diễn tả trẻ con hay người già. Mặc khác, diễn viên không đeo mặt nạ đóng vai đàn ông trưởng thành ở 20, 30 hay 40 tuổi. Diễn viên phụ waki không đeo mặt nạ.

Vài loại mặt nạ, đặc việt là cho vai nữ, được thiết kế để chỉ cần một sự điều chỉnh nhẹ ở vị trí đầu cũng có thể biểu lộ nhiều cảm xúc như sợ hãi hay đau buồn nhờ vào ánh sáng và góc độ hướng đến khán giả. Với những mặt nạ lộng lẫy cho thần thánh hay quỷ, thường không thể thể hiện cảm xúc. Tuy vậy, thông thường, những nhân vật này không được yêu cầu phải thay đổi biểu lộ cảm xúc trong toàn buổi diễn, hay thể hiện cảm xúc thông qua ngôn ngữ cơ thể.

Những mặt nạ Nō hiếm nhất và giá trị nhất thậm chí không được lưu giữ ở các bảo tàng Nhật Bản, mà trong các bộ sưu tập cá nhân của hiệu trưởng (iemoto) các trường dạy kịch Nō; những báu vật này chỉ được trưng bày cho một thiểu số người xem và hiếm khi được mang ra biểu diễn. Nó không làm hư hại gì khi đem ra nghiên cứu và đánh giá mặt nạ kịch Nō, vi truyền thống đã để lại vài trăm tiêu chuẩn thiết kế mặt nạ khác nhau, có thể phân thành một tá các thể loại.

Đạo cụ sân khấu

Đạo cụ hay được sử dụng nhất trong kịch Nō là chiếc quạt, được mọi người biểu diễn mang theo cho dù vai trò của họ có là gì. ca sĩ hát bè và nhạc công cầm quạt khi tiến vào sân khấu, hay nhét nó vào khăn obi. Dù trong trường hợp nào, quạt cũng thường được đặt ở bên cạnh người diễn khi anh ta ngồi vào vị trí của mình, và thường được mang theo khi họ rời sân khấu.

Vài vở kịch có những nhân vật cầm cái vồ, thanh kiếm hay các đạo cụ khác. Tuy nhiên, trong cảnh múa, cây quạt được dùng để thể hiện bất kỳ một loại đạo cụ cầm tay nào khác, ví dụ như thanh kiếm mà diễn viên có thể gài vào khăn hay cầm sẵn ở tay kia.

Khi các đạo cụ cầm tay ngoài chiếc quạt được sử dụng, nó thường được giới thiệu hay được phục vụ sân khấu đưa cho. Giống như đối tác trên sân khấu phương Tây, nhân viên sân khấu kịch Nō mặc áo đen theo truyền thống, nhưng khống giống phương Tây ở chỗ họ xuất hiện trên sân khấu trong các cảnh, và có thể cứ ở trên sân khấu trong suốt buổi biểu diễn, trong cả hai trường hợp đều ở trước mắt khán giả.

Đạo cụ sân khấu kịch Nō còn có thuyền, giếng nước, bệ thờ, và cái chuôn đã nói ở trên cho Dōjōji, thường được mang lên sân khấu từ trước buổi diễn khi cần. Những đạo cụ này thể hiện bằng những nét chính để gợi ra vật thật, mặc dù chiếc chuông lớn, một trường hợp đặc biệt tồn tại lâu dài đối với các luật tục của kịch Nō, được thiết kế để giấu các diễn viên và cho phép thay đổi trnag phục trong các màn biểu diễn aikyogen xen giữa.

Bài hát và âm nhạc (Nōgaku 能楽, năng nhạc)

Hayashi-kata (nhạc công kịch Nō). Từ trái sang phải: taiko, ōtsuzumi, kotsuzumi, fue.

Nhà hát Nō đi cùng với dàn hợp xướng hay đồng ca hayashi (Nō-bayashi 能囃子). Nō là một loại kịch hát, và một vài nhà bình luận đã gọi đây là opera Nhật Bản. Tuy nhiên, giọng hát trong kịch Nō có một số giới hạn về âm, với độ ngân, độ vang trong một diện hẹp. Rõ ràng là giai điệu không phải là trung tâm của ca hát trong kịch Nō. Hơn nữa, lời ca là những câu thơ, phụ thuộc chặt chẽ vào thể loại thơ thất-ngũ quen thuộc trong thơ ca Nhật Bản, ít câu chữ nhưng nhiều ẩn ý.

Một lưu ý quan trọng là ca hát không phải luôn luôn đi liền với nhân vật; đôi khi, cách nói của diễn viên hay miêu tả sự kiện từ cái nhìn của một nhân vật khác hay thậm chí một người kể chuyện vô tư. Không hề phá vỡ nhịp điệu của vở diễn, điều đó thực sự đã giúp cho nhiều người từ những nền văn minh khác hiểu hơn về kịch Nō, đặc biệt là những nhân vật thuộc thể loại mugen (không lời).

Đồng ca Nō hayashi bao gồm bốn nhạc công, còn được gọi là "hayashi-kata". Có ba người đánh trống, chơi shime-daiko, ōtsuzumi, và kotsuzumi, và một người thổi sáo shinobue.

Jo, Ha, Kyū

Một trong những yếu tố biểu diễn huyền ảo nhất của kịch Nō là Jo-ha-kyū, bắt nguồn từ gagaku (nhã nhạc). Tuy nhiên, thay vì đơn giản chỉ chia một vở kịch thành ba phần, trong kịch Nō không chỉ diễn một mình kịch, mà cả hát và múa trong vở diễn, và thậm chí những bước đi, cử chỉ, âm thanh mà diễn viên hay nhạc công tạo ra. Hơn nữa, từ tầm nhìn cao, cả chương trình truyền thống của kịch Nō gồm năm vở diễn chứng minh ý niệm chung này, vở thứ nhất chơi jo, vở thứ hai, thú ba, và thứ tư là ha (vở thứ hai được gọi là jo trong số ha, vở thứ ba gọi là ha trong phần ha, và vở thú ba gọi là kyū trong phần ha), và vở thứ năm gọi là kyū. Nói chung, phần jo chậm và gợi nhiều liên tưởng, phần ha hay phần đi vào chi tiết hay không tuân theo quy luật tự nhiền và thế giới tự nhiên, và kyū giải quyết mọi vấn đề nhanh chóng và bất ngờ (tuy vậy, lưu ý là, điều này chỉ có nghĩa là kyū nhanh so với những các phần trước đó, và những người không quen với các quy tắc của kịch Nō có thể không nhận ra việc đẩy nhanh tốc độ).